Trang phục truyền thống

Thứ tư, 27 Tháng 6 2012 10:07

Các du khách nước ngoài tới Palestine vào cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 thường nhận xét về sự đa dạng trong trang phục của người Palestine, đặc biệt là của người nông dân và phụ nữ ở nông thôn. Cho tới những năm 1940, vị thế kinh tế của một người phụ nữ, tình trạng hôn nhân và khu vực hay thị trấn xuất thân của cô ta có thể được “giải mã” bởi đa số phụ nữ Palestine thông qua loại trang phục, màu sắc, cách cắt may và các kiểu hình thêu. Hiện nay, các loại trang phục và đồ thêu của người Palestine vẫn tiếp tục được sản xuất với những kiểu dáng mới và được mặc song song với trang phục của đạo Hồi và phương Tây.

Các trang phục cơ bản:

  • Thob: Váy thụng dài có tay, kiểu cắt thay đổi tùy theo vùng miền.
  • Qabbeh: Là dải vuông ở phần ngực của váy Thob, thường được trang trí cầu kỳ. Một chiếc qabbeh trang trí được trang trí vô cùng tinh xảo có thể được coi là một vật gia truyền, được truyền lại từ mẹ sang con gái và có thể được mặc với nhiều chiếc váy khác nhau.
  • Diyal: là dải đường viền thêu kim tuyến trên váy thob của phụ nữ Bethlehem.
  • Libas hay Shirwal: là quần
  • Taqsireh: loại áo khoác ngắn được thêu thùa trang trí mà phụ nữ Bethlehem thường mặc trong các dịp lễ hội. Phần trang trí màu vàng trên áo thường hợp tông với váy. Những chiếc áo đơn giản hơn được mặc với váy thường ngày. Cái tên Taqsireh bắt nguồn từ động từ trong tiếng Ả Rập có nghĩa là “cắt ngắn đi”
  • Jubbeh: là áo khoác, gọi chung cho cả áo khoác của nam và nữ.
  • Jillayeh: là áo khoác jubbeh có thêu trang trí.
  • Shambar: Là những chiếc khăn trùm lớn rất phổ biến ở vùng Hebron và phía nam Palestine.

Khăn trùm đầu:

Phụ nữ ở từng vùng miền lại có kiểu khăn trùm đầu riêng, thường được đính thêm các đồng xu bằng vàng hoặc bạc lấy từ tiền sính lễ trong đám cưới. Chiếc khăn càng đính nhiều xu thì chứng tỏ tài sản và uy tín của chủ nhân càng cao.

Sha’weh: một loại mũ hình nón đặc trưng trông giống như “một cái chậu hoa úp ngược”, dành riêng cho phụ nữ đã kết hôn và thường được sử dụng ở Bethlehem, Lifta và Ain Karm (Quận Jerusalem). Người ta cho rằng những chiếc mũ này được các nhà Thập tự chinh mang về Châu Âu sau khi họ nhìn thấy phụ nữ vùng đông Địa Trung Hải đội chúng.

Smadeh: là một loại mũ vải thêu có viền độn cứng, thường được sử dụng ở Ramallah. Một vòng tiền xu xếp liền nhau được quấn quanh vành mũ. Ngoài ra người ta còn có thể đính thêm các đồng xu ở phần trên của mũ hoặc trên các đai nhỏ. Cũng giống như ở chiếc khăn trùm đầu, mũ smadeh thể hiện đồ sính lễ nhà chồng mang đến cho cô dâu, và còn được coi là một nguồn dự trữ tiền mặt quan trọng. Đôi khi bạn sẽ thấy một khoảng trống trên vòng tiền xu, và bạn có thể đoán đó là do họ phải trả tiền cho một lần khám bệnh, hoặc do người chồng đi làm xa chưa kịp gửi tiền về.

Araqiyyeh: được sử dụng ở vùng Hebron. Các từ araqiyyehtaqiyyeh được sử dụng trong thế giới Ả Rập từ thời Trung cổ để chỉ những chiếc mũ nhỏ đội khít trên đầu, thường làm bằng cotton, của cả nam và nữ. Mục đích ban đầu của chúng là để thấm mồ hôi (trong tiếng Ả Rập là “araq”). Ở vùng Hebron, araqiyyeh chỉ loại mũ thêu có chóp nhọn mà một phụ nữ đã kết hôn thường đội bên ngoài taqiyyeh. Trong suốt thời gian đã đính hôn, mỗi phụ nữ ở vùng Hebron sẽ may và thêu mũ araqiyyeh và làm đẹp thêm phần viền mũ bằng các đồng xu từ sính lễ của nhà chồng tương lai. Lần đầu tiên cô gái đó đội chiếc mũ araqiyyeh sẽ là vào ngày cưới của mình.

 

Nguồn: Travel Palestine